39. Tráng ca

Sinh ta, cha ném bút rồi
Rừng nho tàn rụng cho đời sang xuân.
Nuôi ta, mẹ héo từng năm,
Vắt bầu sữa cạn, tê chân máu gầy.
Dạy ta, ba bảy ông thầy
Gươm dài sách rộng, biển đầy núi vơi.
Nhà ta cầm đợ tay người,
Kép bông đâu áo, ngợt bùi đâu cơm?
Chông gai đổi dại làm khôn,
Ba vòng, mòng sếu liệng tròn lại bay…
Bông hoa chu giáp vần xoay (1)
Cánh vàng non nửa đài gầy tả tơi…
Chữ nhân sáng rực sao trời
Đường xe mở rộng chân người bước xa…
Bọn ta một lớp lìa nhà
Cháo hàng cơm chợ, ngồi ca lúa đồng
Hây hây tóc óng từng vòng
Gió nào là gió chẳng mong thổi lùa
Trường đình phá bỏ từ xưa (2)
Đất này sạch khí tiễn đưa cay sè.
Mốn phương tản mát bạn bè
Nhớ nhau hẹn quả mùa hè gặp nhau.
…Rầm trời chớp giật mưa mau,
Lửa đèn chấp chới khói tầu mù u
Bốn phương đây bạn đó thù
Hiệu còi xoáy lộng bản đồ năm châu.
– A, cơn thảo muội bắt đầu,
Tuổi xanh theo gió ngâm câu dặm dài
Thét roi lượng sức ngựa tài,
Coi trong cuộc rối tìm người chờ mong…
Trai lận đận, gái long đong
Chờ mong khắc khoải nản lòng dăm ba:
Nẻo về gốc mẹ cỗi cha
Thuyền ai nặng chở món quà đắng cay!
Từng nơi sống áo trùng tay
Gió thu thổi bạc một ngày lòng son;
Từng nơi cơm trấu, áo rơm,
Mưa xuân nhuốm tái mấy cơn mặt vàng.
Vượn kêu ruột buốt trên ngàn
Nhưng thôi! Sao việc dã tràng lầm theo?
Nện cho vang tiếng chuông chiều
Thù đem sức sớm đánh kêu trống đình
Thở phù hơi rượu đua tranh
Quăng tay chén khói tan thành trời mưa
Dặm dài bến đón bờ đưa
Thuyền ai buồm lái giúp vùa vào nhau
Kia kìa lũ trước dòng sau
Trăm sông rồi cũng chung đầu đại dương.

Tiểu thuyết thứ bảy Nguyệt san, số 6, tháng 11-1944

(1) Chu giáp: một vòng 60 năm.
(2) Trường đình: chỗ người xưa thường đặt tiệc rượu tiễn nhau lên đường.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *