Li biệt, tiễn đưa, rồi bâng khuâng hoài nhớ là những hiện tượng thường tình trong cuộc sống của con người. Nó cũng là một chủ để phổ biến của thi ca. Bới, hơn ai hết, thi sĩ vốn có một trái tim đa cảm; mà phút giây tiễn biệt người thân, thường xao động những tình cảm dạt dào trong miền sâu thẳm của cõi lòng, để rồi tràn tuôn thành những vần thơ chân thành tha thiết. Người đọc từng hình dung đôi mắt đăm đăm của Lí Bạch dõi theo bóng của Mạnh Hạo Nhiên xuôi dòng Trường Giang, như đang cố khắc ghi một lần cuối cùng nhân ảnh của bạn trong tâm tưởng bùi ngùi, vào tháng ba, mùa hoa khói nơi lầu Hoàng Hạc năm xưa.
“Cô phàm viễn ảnh bích không tận Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu” Dịch thơ: “Bóng buồm đã khuất bầu không Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời” (Ngô Tất Tố) Trong những năm 40 của thời hiện đại, giữa bầu không khí rộn ràng của thi đàn Thơ Mới, Thâm Tâm lại tìm về giai điệu “Hành” vốn từng ngân vọng ở Trung Hoa trước thời Đường, Tống, để tấu nên khúc “Tống biệt hành” như một bản độc tấu trầm hùng bi tráng, “đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại”, làm cho các văn nhân, thi sĩ phải giật mình ngỡ ngàng với âm thanh lạ mà đã như quen, đưa ta về một thời xa vắng . Giọng thơ gợi ra những liên cảm trân trọng ở bạn đọc về đối thể trữ tình có dáng dấp và lí tưởng như chàng Kinh Kha năm xưa bên bờ sống Dịch Thuỷ, từ giả thái tử Đan và quân dân nước Yên để vào đất Tần mưu chí lớn: hành thích tên bạo chúa Tần Thuỷ Hoàng “Đưa người ta không đưa qua sống Sao có tiếng sóng ở trong lòng Bóng chiều không thắm không vàng vọt Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong” Lời thơ vang lên làm ta không khỏi băn khoăn bởi thơ hết sức lạnh lùng, hờ hững. Nếu không có tình cảm sâu nặng, ai cần phải tiễn đưa gượng ép làm gì? Câu thơ mở bài là ý niệm của lí trí tỉnh táo, được khách thể hoá thêm mối quan hệ bằng hữu thân thiết thành hai đại từ nhân xưng “Người và Ta” nghe hết sức xa lạ. “Đưa người ta chỉ đưa người ấy Một giã gia đình, một dửng dưng” Không gian tiễn đưa là dòng sông lạnh như muốn mượn sự vô cảm cách ngăn của tạo hoá để cho việc tiễn đưa diễn ra nhanh chóng, không có điều kiện lưu luyến vấn vương. Dẫu như vậy, trong cõi lòng sâu thẳm của kẻ tiễn đưa vẫn dậy lên những con sóng tình cảm xôn xao, dù không qua sông chòng chành trên sóng nước. Bóng chiều vẫn chưa thay đổi gì lắm trong khảnh khắc ngắn ngủi của cuộc chia tay; nhưng hoàng hôn – ngấn lệ bồi hồi – đã dâng đầy đôi mắt trong trẻo. Đây là cảnh tiễn đưa giữa các đấng nam nhi, tất nhiên không có những dòng lệ chan chứa như “Giang Châu Tư Mã đẫm mùi áo xanh”. Thực ra, vẻ tỉnh táo bên ngoài chỉ là một sự kềm nén cảm xúc có tính giả tạo; còn bên trong đang hình thành dần một khoảng trống lạnh tâm tư, như Hàn Mặc Tử từng ngậm ngùi: “Người đi một nửa hồn tôi mất Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ” Chỉ khúc dạo đầu mà sao có tới ba từ “không” phủ định vang lên với những câu nghi vẫn tu từ “Sao có…”, “Sao đầy…” như là một sự thẩm định tình cảm bằng hữu sâu nặng giữa kẻ đưa tiễn với người ra đi. Chính trong trạng thái lắng lòng ấy, chủ thể trữ tình đã nghe vang động lên nhịp chân trầm lặng của li khách trên con đường nhỏ mang theo hoài bão lớn của người ra đi; nghe cả lời tâm niệm thầm kín đầy tính hi sinh trong dòng suy nghĩ lựa chọn đầy khó khăn của kẻ ra đi: “Li khách Li khách con đường nhỏ Chí lớn chưa về bàn tay không Thì không bao giờ nói trở lại Ba năm mẹ già cũng đừng mong” Ý thơ đột ngột chuyển từ tiết tấu mênh mang sâu lắng, sang rắn rỏi dứt khoát với những từ phủ định những bịn rịn, yếu mềm như “không bao giờ…, cũng đừng mong” . Những tín hiệu nghệ thuật này góp phần làm nổi bật phong thái hiên ngang của tráng sĩ ra đi vì đại nghiệp, như Chính Hữu tưng phản ánh trong “Ngày về”: “Nhớ đêm ra đi đất trời bốc lửa Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa” Người mẹ thân thương yêu kính xuất hiện trong tâm thức của kẻ lên đường không hề là hình ảnh mỏng manh mờ nhạt. Nhưng khi đặt tình nhà trong tương quan với nghĩa nước, lòng hiếu thảo với sự tồn vinh của Tổ quốc, thì chắc ai cũng đồng cảm với sự chọn lựa của nhân vật trữ tình, chí lớn chưa thành thì dẫu ba năm mẹ già cũng đừng mong… Đề tài li biệt thường phủ một gam màu mờ xám quan san như buổi Thúc Sinh từ giã Thuý Kiều. Các thi nhân thường chọn thời gian lá úa thu tàn để cho thiên nhiên “than thầm tiễn biệt”, “sau lưng thềm nắng lá rơi đầy” đưa bước người đi. Ở đây, người tiễn đưa thấu hiểu được nổi buồn liễm kết trong tâm tưởng kẻ lên đường từ khi xác định cho mình một lẽ sống mới. Ta biết người buồn chiều hôm trước, Bây giờ mùa hạ sen nở nốt, Một chị, hai chị cũng như sen, Khuyên nốt em trai dòng lệ sót. Ta biết người buồn sáng hôm nay Giời chưa mua thu tươi lắm thay Em nhỏ thơ ngây đôi mắt biếc Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay… Ý thơ đột nhiên chuyển vào một sắc màu tươi vui rực rỡ của mùa hạ chói chang. Xét về lô gic diễn đạt thì lạc điệu vô cùng, lẽ nào Thâm Tâm không hiểu ra điều ấy, đây thực ra là một sự lạc điệu có tính cần thiết – một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của thi nhân. Người đi để lại sau lưng là cả một gánh nặng gia đình đáng ra mình phải có trọng trách chu toàn: Mẹ già chỉ như chiếc bóng lay lắt với thời gian, những người chị yêu quí như những đoá hoa sen đáng tôn thờ, người em thơ ngây đang cần bàn tay anh dìu dắt… Ngôi nhà xưa với bao nghĩa tình ghi tâm khắc cốt đâu dễ gì xoá mơ trong kí ức để cho khỏi nặng lòng nhẹ bước viễn du. Phải chăng vì thế mà thi nhân cố đưa vào một bầu không khí tươi vui rực rỡ để làm nhoà bớt hoàng hôn trong mắt, giúp cho người ra đi tạm thời quên lãng trăm mối tơ vương đôi đường nặng nhẹ khó chu toàn đê lên đường vì chí lớn. Thâm Tâm thật sâu sắc và tinh tế trong việc sắp xếp thứ tự xuất hiện rồi lui dần của những người thân: từ mẹ già, chị gái đến em thơ ngây. Cuối cũng trong phút biệt li chỉ còn lại kẻ tiễn, người đi không mang tình huyết thống. Có như thế người đi mới nhẹ bước lên đường. Đó quả là một sự sắp xếp hết sức ý nhị phù hợp với tâm trạng của con người. Cuối cùng, tất cả tình cảm nén lại được vỡ oà sau lúc chia xa. Những giả định dối lòng trước hiện thực ngậm ngùi li biệt được thừa nhận cùng nhau khi chuyện đã rồi: “Người đi? Ừ nhỉ người đi thực! Mẹ thà coi như chiếc lá bay. Chị thà coi như là hạt bụi. Em thà coi như hơi rượu say.” Khổ kết bài thơ là một sự cộng hưởng hoà điệu của nhiều tiếng lòng khác nhau. Mọi mối quan hệ tình cảm sâu nặng về nhau đều tạm thời “thà coi như” nhẹ vô cùng. Có thể người mẹ coi đứa con dứt ruột đẻ ra như một chiếc là bay vèo vào lòng Tổ Quốc đê góp thêm màu xanh cho đất nước. Người chị coi người em yêu quí như hạt bụi hoà vào Đất Mẹ góp thêm phù sa cho hoa trái tương lai. Người em xem người anh thần tượng như hơi rượu nồng tan loảng phôi phai trong hồn thơ trẻ vô tư. Có như vậy mới tạo điều kiện đứa con, đứa em, người anh yêu quí lên đường mưu chí lớn. Và ngược lại, người con cũng tạm xem người mẹ tôn thờ của mình là chiếc lá vàng sắp trở về trong cõi vô thường, coi những người chị quí như sen chỉ là hạt bụi cay cay trong mắt; và coi người em hồn nhiên ngây thơ như hơi men nồng loãng tan trong miền cảm giác, mới có thể dứt áo ra đi, để lại mái nhà xưa với bao người thân yêu một đời vương thương nhớ. Bài thơ khép lại với một bản hợp tấu đa thanh đồng điệu có khả năng đồng vọng mãi trong trường liên cảm mến mộ của bạn đọc nhiều thế hệ đã qua cho đến hôm nay, và tin rằng mai sau vần thơ “Tống biệt hành” vẫn còn ngân vọng. (Bài do PGS-TS. Phạm Quang Trung biên tập) |
(*) Nguyễn Tống: Thạc sỹ Văn học, Giáo viên Trường Quốc học Huế.