Những ánh mắt – Tản văn

NHỮNG ÁNH MẮT

Cuối mùa xuân năm nay, Bạch Ngạc tìm đến chúng tôi. Anh ta có đôi mắt buồn rầu thăm thẳm, nhưng buổi sáng nào anh cũng tươi cười như màu nắng, và từ khi làm việc cùng chúng tôi, anh rất hoạt động, trẻ trung, dẫu quầng mắt anh càng ngày càng thâm lại.

Hôm đầu, anh ta treo lên tường một bức ảnh: đấy là mặt một thiếu nữ tuy không đẹp lắm, nhưng đôi mắt, trời ơi! đôi mắt thờ ơ như lơ đãng kia sao lại kín đáo ẩn một vẻ giận hờn vô hạn! Muốn chúng tôi hiểu cách “trông ảnh” và đừng lạ về cử chỉ của anh, Bạch Ngạc kể:

– Tôi đã gặp một gã tiều phu. Người ấy sinh hoạt một cách nghèo khổ và khó khăn để nuôi người mẹ vợ già và mấy đứa con nhỏ. Chiều chiều, anh ta xuống đồi, chiều chiều anh ta mừng rỡ khi thấy… mẹ già một tay dắt lũ cháu mọn, một tay đội tà áo lên đầu dưới nắng chiều rớt lại, đôi mắt bà cụ ứa ra bao nhiêu ánh dịu dàng trông ngóng… Anh ta bảo tôi: “Đôi mắt ấy là đôi mắt của vợ tôi ngày xưa. Còn được nhìn thấy, tôi còn nhớ lời dối dăng khi vợ tôi sắp chết, và tôi quên được hết những sự mệt nhọc.”

Mãi về sau chúng tôi mới biết Bach Ngạc có một chuyện tâm tình đau đớn, nhưng anh quên được, hăng hái trong công việc được là nhờ đôi mắt ở tấm ảnh kia.

Nhưng một hôm anh bảo:

 Hà Nội cám dỗ được tôi chỉ vì đôi mắt Nàng, mà người ấy vừa mới bị mù, đôi mắt ấy đã mù, tấm ảnh này với tôi thành vô nghĩa, lòng gượng gạo hoạt động cùng các anh cũng không còn.”

Thế là anh ta xé tấm ảnh đi…

Rồi anh ta đi biệt mất…

Tuấn Trình

Tuần báo Bắc Hà, Số 15, 19-11-1936

Nắng chiều – Tản văn

NẮNG CHIỀU

Những vừng cây ở bên Giám đang vương đầy những ánh vàng nhạt, dư sót…

Anh Kim chỉ tay như điểm một lời thơ, rồi nói: Ánh nắng lướt trên nõn chuối như một sự mơn trớn dịu dàng, lại rơi từng mảnh theo lá khô như căm tức, tuyệt vọng, lại…

Tôi kéo tay anh ta lại, ngước mắt để tỏ dấu muốn một phút lặng yên. Là vì tôi vừa mới buồn rầu nhận thấy ở trong tia nắng xuyên rớt kia có vẩn những cát bụi. Tôi không muốn anh ta nghĩ đến những tâm trạng tầm thường, những cảm giác mê ly trong ảo mộng nữa! Tôi thoáng tưởng đến hình ảnh một buổi chiều kia, mấy đứa trẻ mồ côi chúi rụi dưới một cái quán chợ đổ nát để ăn bữa cơm chiều, nó lạnh lùng sao! tăm tối sao! không có lấy một tia nắng nào soi rọi tới! Rồi bao nhiêu những bức tranh đau đớn như thế hiện ra trong tâm tưởng tôi cùng với những tia nắng lọt qua khe liếp, thấm xuống vũng bùn, rơi trên một thi hài, và lênh láng giữa một vũng máu…

Thành ra một bức màu nắng chiều của hôm nay, tôi chỉ nhận thấy những vết loang đau đớn, những vẻ sắc thê thảm của thời đại mà nhân loại chấm phá nên. Và tôi còn căm tức rằng tại sao hạng người thấp kém ấy cứ chịu thấp kém mãi, chịu dập vùi mãi, như nắng chiều cứ dần dần ngụp tắt ở chân trời.

Tuấn Trình

Tuần báo Bắc Hà, Số 15, 19-11-1936

Khi mùa thu lạnh – Tản văn

KHI MÙA THU LẠNH

Đây là một buổi sáng thu, một buổi sáng mà những tiếng lá khô ràn rạt cuốn theo luồng gió đã chạm mạnh tới lòng tôi.

Tựa lựng vào một thân cây trong Văn Miếu, tôi ngồi từ lúc sương chưa tan, đợi một vài tiếng chim lạ đến gõ vào tâm hồn tôi một vài thi tứ…

Những chiếc lá muỗm rơi sạc sào như tiếng thở tuyệt vọng, gió sớm rền rĩ lướt trên làn bông may trắng xóa, mãi tới hôm nay tôi mới thấy mùa thu về ở trong lòng!

Gió thu đã lạnh!

Người sương phụ bên gác kia vì đâu mà ru con như khóc? Dưới gốc đại, sao ông già hững hờ dừng tay chẳng quét lá khô đi? Đầu phố, cô gái thơ mười sáu bỗng dưng tựa cửa ngẩn ngơ! Và… hôm qua, một gã chinh phu từ nơi xa lạ đã trở về!

– Cỏ phải chăng, mùa thu đem lại những cảm giác buồn nản? Không! Tôi đã chán với tâm sự những người ta! Cuốn đi, cát lốc ơi! Hãy cuốn đi những hình ảnh cũ! Tôi không muốn sương thu gieo cho một hạt lệ. Tôi muốn đập lên tấm bia đá kia để vỡ ra một lời huyền bí, tôi muốn gió mới thổi lại cho hồn tôi những ý thơ là lạ, tôi muốn lòng tôi tươi ra cùng nắng hanh!

Tuấn Trình

Tuần báo Bắc Hà, Số 14, 12-11-1936