Chuyên đề: Văn học lãng mạn và hiện thực phê phán 1930-1945 (phần thơ): Tống biệt hành – Thâm Tâm

Trong phong trào Thơ mới của những nhà thơ sáng tác không nhiều nhưng ấn tượng để lại rất sâu đậm. Thâm Tâm là một trường hợp như vậy. Nét riêng trong thơ ông là giọng điệu trầm hùng và rắn rỏi, nói lên nỗi day dứt về thế sự và con người.
1. Tống biệt hành là một bài thơ hay. Đề tài “Tống biệt” là một đề tài quen thuộc trong kho tàng thơ ca Việt Nam và thơ ca thế giới. Thâm Tâm đã chọn đề tài này và viết theo thể hành, một thể thơ cổ phong có trước thơ Đường luật, viết khá tự do, phóng khoáng. Ngoài Tống biệt hành, ông còn viết một số bài thơ khác theo thể thơ này như Can trường hành, Vọng nhân hành, Tạm biệt hành.
Đề tài không mới, thể thơ cổ, nhưng tác giả lại đưa được vào đó cái không khí của thời đại mình đang sống, cái hoài bão của con người đương thời nên đã tạo ra nét độc đáo của bài thơ.
Bài thơ diễn tả tâm trạng và suy tư của “người tiễn” sau khi tiễn “người đi” (ly khách) ra đi tìm “chí lớn”. “Người tiễn” và “người đi” là hai người bạn cùng chí hướng, ôm ấp chí tung hoành, không muốn sống tầm thường. “Ta” trong bài thơ này là người tiễn; “ly khách”, “người” là “người ra đi”.
2. Đoạn đầu bài thơ (“Đưa người… mẹ già cũng đừng mong”) miêu tả nỗi lòng người đưa tiễn và sự quyết chí ra đi của người đi.
Bốn câu mở đầu cho thấy nỗi lòng xao xuyến thảng thốt của “người tiễn” khi “tống biệt” người ra đi. Ở đây có nỗi xúc động phấp phỏng, có nỗi buồn bã lo âu (Sao có tiếng sóng ở trong lòng. Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong). Tại sao người đưa tiễn lại có tâm trạng ấy? Bởi lẽ người đưa tiễn hiểu rằng mình đang tiễn một người quyết chí ra đi mà không thể khuyên can, không thể níu kéo. Người ra đi quyết hiến thân cho “ chí lớn”, quyết không trở về với “hai bày tay không”. Cho nên “không bao giờ nói trở lại”, “ba năm mẹ già cũng đừng mong”. Cuộc “tống biệt” có thể thành ra cuộc vĩnh biệt.
Con đường nhỏ ít người đi, đầy khó khăn trắc trở cuốn hút người đi rồi, đừng mong chi ngày gặp lại. Cho nên dù là cùng chí hướng, dù không phản đối việc ra đi, mà người tiễn vẫn không khỏi thảng thốt, tái tê kêu lên “Ly khách! ly khách! Con đường nhỏ”. Người tiễn gọi theo người ra đi như muốn níu kéo lại cái hình bóng dáng khuất dần trên con đường nhỏ.
3. Đoạn hai cũng là đoạn cuối bài thơ (Ta biết người buồn… như hơi rượu say)… Sau khi “người đi” đã đi rồi, người tiễn nhớ lại người ra đi và nỗi lòng “người ra đi” hiện lên trong sự nhớ lại đó.
Nếu như ở đoạn trước “người ra đi” được miêu tả có vẻ nhất quyết (“Một giã gia đình, một dửng dưng”) thì ở đoạn này tác giả miêu tả “người ra đi” cũng đầy day dứt: “Ta biết người buồn chiều hôm trước” lại “biết người buồn sáng hôm nay” nữa, chứ không phải như cái vẻ “dửng dưng” lúc ra đi.
“Ta biết người buồn chiều hôm trước” vì một chị, rồi hai chị khóc hết nước mắt “khuyên nốt em trai dòng lệ sót”. Có gì làm duyên cớ đều được đưa ra khuyên nốt, khuyên hết. Dòng lệ sót là những giọt nước mắt cuối cùng. Hết chị này đến chị kia, hết giọt nước mắt này đến giọt nước mắt khác đã chảy đến cạn kiệt để khuyên em ở lại. Trước một tình cảm như thế ta hiểu người buồn lắm. Đó chính là một nỗi cảm thông.
“Ta biết người buồn sáng hôm nay” khi “em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc”, “gói tròn thương tiếc” trong chiếc khăn tay đưa tặng… Như thế, hết “chiều hôm trước” đến “sáng hôm sau”, hết chị rồi đến em, tất cả những gì yêu thương ruột rà máu mủ đều muốn giữ lại người ra đi .
Nhưng người ra đi vẫn dứt áo ra đi. “Dòng lệ sót” của chị, “đôi mắt biếc” của em, rồi mẹ già “nắng ngã cành dâu” cũng không thể ngăn cản được, níu kéo được sự quyết chí ra đi của người đi. Khi người đi đã đi rồi, người tiễn vẫn như chưa dám tin:
Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
“Người đi ?” với một dấu chấm hỏi như ngỡ ngàng: người đi thật rồi sao? Hai tiếng “ừ nhỉ” xen vào đây như một sự bàng hoàng đến ngẩn ngơ. “Thế là người đi thực” rồi! Người tiễn biết người ra đi đã đi thực rồi, đi thực với một sự gắng gượng, sự dằn lòng đến đau đớn:
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say
“Thà coi như” lặp lại ba lần với ba người thân yêu nhất: một sự lựa chọn đau đớn, một sự “dứt áo” nặng trĩu lòng, chứ nào đâu phải cố làm ra vẻ “dửng dưng” như ở trên kia.
4. Tống biệt hành là một bài thơ “tống biệt”; có kẻ ở người đi. Người ở, lòng xao xuyến tái tê; người đi cũng đau đớn trĩu lòng. Nhưng dù sao người đi cũng quyết chí lên đường, để thực hiện chí lớn của mình, chứ nhất định không đắm mình trong sự ngột ngạt, tù túng. Cái quyết chí “ tống biệt” ấy làm cho bài thơ thật giàu chất lãng mạn và đầy hào khí.
Trong Thi nhân Việt Nam nhà phê bình Hoài Thanh thật tinh tế khi cho rằng: “Trong bài Tống biệt hành thấy sống lại cái không khí riêng của nhiều bài thơ cổ. Điệu thơ gấp. Lời thơ gắt. Câu thơ rắn rỏi, gân guốc, không mềm mại, uyển chuyển như phần nhiều thơ bây giờ. Nhưng vẫn đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại”. Bài thơ khó hiểu vì từ ngữ trong thơ hàm súc, dồn nén, nhiều chỗ tĩnh lược; giữa các dòng thơ có nhiều khoảng trống tạo thành một vẻ đẹp bí ẩn và cổ kính rất hiếm thấy trong thơ ca hiện đại.
Bài giảng của: Trung tâm Bồi dưỡng văn hóa và Luyện thi đại học Vĩnh Viễn

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *